Video Player

Màu thời gian trong bài thơ 'Thăng Long hoài cổ' - Thời sự 17g00 10/10/2020

Thăng Long-Hà Nội xưa, nay đã cách nhau hàng ngàn năm lịch sử, nhưng vẫn còn đây những lối cũ rêu phong. Màu thời gian ngưng đọng khiến ta nhớ đến bài thơ “Thăng Long hoài cổ” của Bà Huyện Thanh Quan.

Chào mừng 1010 năm Thăng Long-Hà Nội, mở đầu chương trình thời sự chiều nay, mời quý vị nghe bài của Cộng tác viên Nguyễn Văn Thanh, nhan đề: Màu thời gian trong bài thơ “Thăng Long hoài cổ”:  

Thăng Long chính thức là kinh đô của Đại Việt từ năm 1010, khi Thái Tổ Lý Công Uẩn-vị vua đầu triều nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên kinh đô mới thể hiện nhiều khát vọng.

Nhưng trước đó, từ thế kỷ thứ 9, vùng đất này-có tên là Tống Bình, rồi Đại La đã là thủ phủ, là trung tâm kinh tế chính trị, văn hóa xã hội từ thời An Nam đặt dưới sự đô hộ của nhà Đường. Suốt 13 thế kỷ, qua bao thăng trầm lịch sử, qua bao khói lửa chiến tranh, thành Thăng Long xưa dường như bị xóa nhòa dấu vết. Những gì còn lại của thành quách, cung điện… là những kiến trúc ít ỏi chồng lấp qua nhiều thời kỳ từ thời Đại La cho tới các triều đại Lý-Trần-Lê.

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi và định đô ở Huế, kinh đô vẫn đặt ở Phú Xuân và Thăng Long được gọi là Bắc Thành. Năm 1831 vua Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội, Thăng Long được gọi là Hà Nội.  Như vậy, sau gần 8 thế kỷ được chọn là kinh đô, trái tim của cả nước, Thăng Long tên cũ song đã trở thành “Long” (thịnh vượng), rồi sau đó là Hà Nội, để lại bao nỗi tiếc nuối cho lòng người. Bà Huyện Thanh Quan hẳn cũng không tránh khỏi cái hoài niệm về một thời quá vãng đã khắc quá sâu trong tâm hồn bà cũng như đối với mỗi người trên đất Thăng Long, Bà đã viết bài thơ “Thăng Long hoài cổ”:

“Tạo hóa gây chi cuộc hý trường

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”.

Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng từ láy “thấm thoắt” để diễn tả sự vận động thay đổi nhanh chóng thời gian: “Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”, như đã góp phần tô đậm thêm nổi đau của nữ sĩ trước thời cuộc thay đổi, hưng phế của triều đại, của bao kiếp người, bao số phận. Hiện thực giống như một màn hài kịch trên sân khấu (cuộc hí trường) hạ màn, nhanh như mới hôm qua, hôm kia. Trong mỗi chữ, mỗi câu đều chứa chan sự thương yêu, nỗi buồn đau, nuối tiếc của bà đối với cố đô Thăng Long.

Ngoài ra, bài thơ được bà sử dụng từ Hán Việt một cách chủ động, linh hoạt. Bà đan xen từ thuần Việt với từ hán Việt hết sức điêu luyện và hiệu quả. Những cặp đối rất chỉnh, hài hòa, cân đối về âm điệu, hình ảnh câu từ “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,/Nước còn cau mặt với tang thương”, “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,/Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Các cập hán Việt ứng đối, nó tự giải thích cho nhau về nghĩa, diễn đạt ý thơ một cách hàm súc, cô đọng, trang trọng, thanh nhã, cổ kính có sức khái quát cao.

Kỷ niệm 1010 năm Thăng Long - Hà Nội, dạo bước dưới trời thu Hà Nội se se lạnh, chúng ta hoài niệm về “Thăng Long hoài cổ”, mơ về Hà Nội dáng kiều thơm, một Hà Nội lung linh hồn nhập vào sông núi, một Hà Nội như là bức tranh của những mảng màu, với một vẻ đẹp thật độc đáo:

“Sương dăng đỉnh núi mờ xa? 

Phủ Tây Hồ bâng khuâng huyền thoại

Xa xa hạc trắng bay về

Hồn ta tĩnh lặng bên chùa nắng

Gió Tây Hồ thổi mãi mái rêu phong”

(Bài thơ: Chiều Phủ Tây Hồ - Thái Thăng Long).

VOH

Bình luận

Đọc Báo mới